• Thứ năm , 7/11/2024 | 14:10 GMT +7
timkiem
×
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - World Trade Organization (WTO).
8/9/2024 | 3:37 PM GTM+7

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là tổ chức quốc tế toàn cầu duy nhất xử lý các quy tắc thương mại giữa các quốc gia. Trọng tâm của nó là các hiệp định của WTO, được đàm phán và ký kết bởi phần lớn các Quốc gia thương mại trên thế giới và được phê chuẩn tại Quốc hội của họ. Mục tiêu là đảm bảo rằng giao dịch diễn ra suôn sẻ, có thể dự đoán trước và tự do nhất có thể.

Lịch sử của hệ thống thương mại đa phương, từ những ngày đầu của Con đường tơ lụa cho đến việc hình thành Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) và sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thương mại đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế và thúc đẩy quan hệ hòa bình giữa các quốc gia.

Chính sách thương mại và đối ngoại đã gắn liền với nhau trong suốt lịch sử, với chính sách đối ngoại thường được điều chỉnh để thúc đẩy lợi ích thương mại. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, dưới thời nhà Hán, Trung Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự của mình để duy trì “Con đường tơ lụa” vì giá trị thương mại của nó. Vào năm 30 trước Công nguyên, La Mã đã chinh phục phần lớn Ai Cập để có nguồn cung cấp ngũ cốc tốt hơn.

GATT ra đời như thế nào? - Các nhà đàm phán chính cho việc thành lập GATT đã bất đồng sâu sắc về mức độ tham vọng cần đạt được nhưng cuối cùng đã vượt qua sự khác biệt của họ. Từ năm 1948 đến năm 1994, GATT đã đưa ra các quy tắc cho phần lớn thương mại thế giới và chủ trì các giai đoạn chứng kiến một số tốc độ tăng trưởng cao nhất trong thương mại quốc tế. Nó dường như đã được thiết lập tốt nhưng trong suốt 47 năm đó, nó chỉ là một thỏa thuận và tổ chức tạm thời.

Việc thành lập WTO vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 đánh dấu cuộc cải cách thương mại quốc tế lớn nhất kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi GATT chủ yếu giải quyết vấn đề thương mại hàng hóa thì WTO và các hiệp định của tổ chức này cũng điều chỉnh cả thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Sự ra đời của WTO cũng tạo ra những thủ tục mới cho việc giải quyết tranh chấp.

MỤC TIÊU CHUNG CỦA WTO

Mục tiêu chung của WTO là giúp các thành viên sử dụng thương mại như một phương tiện để nâng cao mức sống, tạo việc làm và cải thiện cuộc sống của người dân. WTO vận hành hệ thống quy tắc thương mại toàn cầu và giúp các nước đang phát triển xây dựng năng lực thương mại. Nó cũng cung cấp một diễn đàn để các thành viên của mình đàm phán các hiệp định thương mại và giải quyết các vấn đề thương mại mà họ gặp phải với nhau;

Cải thiện đời sống nhân dân;

Mục tiêu cơ bản của WTO là cải thiện phúc lợi của người dân trên toàn thế giới. Hiệp định Marrakesh sáng lập của WTO công nhận rằng thương mại nên được tiến hành nhằm nâng cao mức sống, đảm bảo việc làm đầy đủ, tăng thu nhập thực tế và mở rộng thương mại toàn cầu về hàng hóa và dịch vụ đồng thời cho phép sử dụng tối ưu các nguồn lực của thế giới.

Đàm phán các quy tắc thương mại;

WTO ra đời sau 5 thập kỷ đàm phán nhằm giảm dần các trở ngại đối với thương mại. Khi các quốc gia phải đối mặt với các rào cản thương mại và muốn chúng được hạ thấp, các cuộc đàm phán đã giúp mở ra thị trường thương mại. Ngược lại, trong một số trường hợp, các quy tắc của WTO hỗ trợ việc duy trì các rào cản thương mại – ví dụ, để bảo vệ người tiêu dùng hoặc môi trường.

Giám sát các hiệp định của WTO;

Trọng tâm của nó là các hiệp định của WTO, được đàm phán và ký kết bởi phần lớn các quốc gia thương mại trên thế giới. Về cơ bản là các hợp đồng, các tài liệu này cung cấp các quy tắc cho thương mại quốc tế và ràng buộc các chính phủ giữ các chính sách thương mại của họ trong các giới hạn đã thỏa thuận. Mục tiêu của họ là giúp các nhà sản xuất hàng hóa và dịch vụ, các nhà xuất khẩu và nhập khẩu tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm nâng cao mức sống, đồng thời cho phép các chính phủ đạt được các mục tiêu xã hội và môi trường.

Duy trì giao dịch mở;

Mục đích quan trọng nhất của hệ thống là giúp thương mại lưu thông tự do nhất có thể - miễn là không có tác dụng phụ không mong muốn - bởi vì điều này kích thích tăng trưởng kinh tế và việc làm, đồng thời hỗ trợ sự hội nhập của các nước đang phát triển vào hệ thống thương mại quốc tế. Các quy tắc của nó phải minh bạch và có thể dự đoán được, để đảm bảo rằng các cá nhân, công ty và chính phủ biết các quy tắc thương mại trên khắp thế giới là gì và đảm bảo với họ rằng sẽ không có sự thay đổi chính sách đột ngột nào.

Giải quyết tranh chấp;

Quan hệ thương mại thường liên quan đến lợi ích xung đột. Các hiệp định, bao gồm cả những hiệp định được đàm phán kỹ lưỡng trong WTO, thường cần được phiên dịch. Cách hài hòa nhất để giải quyết những khác biệt này là thông qua một thủ tục trung lập dựa trên nền tảng pháp lý đã được thống nhất. Đó là mục đích đằng sau quy trình giải quyết tranh chấp được ghi trong các hiệp định của WTO.

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA WTO

WTO được điều hành bởi các Chính phủ thành viên. Tất cả các quyết định quan trọng được đưa ra bởi toàn bộ thành viên, hoặc bởi các bộ trưởng (những người thường họp ít nhất hai năm một lần) hoặc bởi các đại sứ hoặc đại biểu của họ (những người họp thường xuyên tại Geneva).

Các hoạt động của WTO được hỗ trợ bởi Ban thư ký gồm khoảng 700 nhân viên và các chuyên gia của nó - luật sư, nhà kinh tế, nhà thống kê và chuyên gia truyền thông - hỗ trợ các thành viên WTO hàng ngày để đảm bảo, bên cạnh những vấn đề khác, rằng các cuộc đàm phán diễn ra suôn sẻ và các quy tắc thương mại quốc tế được áp dụng đúng và thi hành. Đứng đầu là Tổng giám đốc WTO. Ban thư ký được đặt tại Geneva, Thụy Sĩ và có ngân sách hàng năm khoảng 200 triệu CHF. Ba ngôn ngữ chính thức của WTO là tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.

Các quyết định trong WTO thường được đưa ra bởi sự đồng thuận của toàn bộ thành viên. Cơ quan thể chế cao nhất là Hội nghị Bộ trưởng, họp khoảng hai năm một lần. Một Hội đồng chung tiến hành công việc kinh doanh của tổ chức trong khoảng thời gian giữa các Hội nghị Bộ trưởng. Cả hai cơ quan này bao gồm tất cả các thành viên. Các cơ quan trực thuộc chuyên ngành (Hội đồng, Ủy ban, Tiểu ban), bao gồm tất cả các thành viên, quản lý và giám sát việc thực hiện của các thành viên đối với các hiệp định khác nhau của WTO.

WTO LÀM GÌ?

Đàm phán thương mại;

Các hiệp định của WTO bao gồm hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Họ giải thích rõ ràng các nguyên tắc tự do hóa và các ngoại lệ được phép. Chúng bao gồm các cam kết của từng quốc gia về giảm thuế hải quan và các rào cản thương mại khác, đồng thời mở cửa và duy trì các thị trường dịch vụ mở. Họ đặt ra các thủ tục giải quyết tranh chấp. Các thỏa thuận này không tĩnh; chúng được đàm phán lại theo thời gian và các thỏa thuận mới có thể được thêm vào gói. Nhiều vấn đề hiện đang được đàm phán trong Chương trình nghị sự Phát triển Doha, được đưa ra bởi các bộ trưởng thương mại của WTO tại Doha, Qatar, vào tháng 11 năm 2001.

Thực hiện và giám sát;

Các hiệp định của WTO yêu cầu các chính phủ minh bạch hóa các chính sách thương mại của họ bằng cách thông báo cho WTO về các luật có hiệu lực và các biện pháp được thông qua. Các hội đồng và ủy ban khác nhau của WTO tìm cách đảm bảo rằng các yêu cầu này được tuân thủ và các hiệp định của WTO đang được thực hiện đúng. Tất cả các thành viên WTO phải trải qua quá trình xem xét định kỳ các chính sách và thông lệ thương mại của họ, mỗi lần xem xét bao gồm các báo cáo của quốc gia liên quan và Ban thư ký WTO.

Giải quyết tranh chấp;

Thủ tục của WTO để giải quyết các xung đột thương mại theo Cách hiểu về Giải quyết Tranh chấp là rất quan trọng để thực thi các quy tắc và do đó để đảm bảo rằng thương mại diễn ra suôn sẻ. Các quốc gia đưa tranh chấp ra WTO nếu họ cho rằng các quyền của họ theo các hiệp định đang bị vi phạm. Các đánh giá của các chuyên gia độc lập được chỉ định đặc biệt dựa trên việc diễn giải các hiệp định và cam kết của từng quốc gia.

Xây dựng năng lực thương mại;

Các hiệp định của WTO có các điều khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển, bao gồm khoảng thời gian dài hơn để thực hiện các hiệp định và cam kết, các biện pháp tăng cơ hội thương mại và hỗ trợ để giúp họ xây dựng năng lực thương mại, xử lý tranh chấp và thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật. WTO tổ chức hàng trăm phái đoàn hợp tác kỹ thuật tới các nước đang phát triển hàng năm. Nó cũng tổ chức nhiều khóa học mỗi năm tại Geneva cho các quan chức chính phủ. Viện trợ Thương mại nhằm mục đích giúp các nước đang phát triển phát triển các kỹ năng và cơ sở hạ tầng cần thiết để mở rộng thương mại của họ.

Tiếp cận cộng đồng;

WTO duy trì đối thoại thường xuyên với các tổ chức phi chính phủ, các nghị sĩ, các tổ chức quốc tế khác, giới truyền thông và công chúng về các khía cạnh khác nhau của WTO và các cuộc đàm phán Doha đang diễn ra, với mục đích tăng cường hợp tác và nâng cao nhận thức về các hoạt động của WTO.

CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH CỤ THỂ CỦA WTO LÀ:

  • Đàm phán về việc cắt giảm hoặc loại bỏ các trở ngại đối với thương mại (thuế nhập khẩu, các rào cản thương mại khác) và thống nhất về các quy tắc điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế (ví dụ: chống bán phá giá, trợ cấp, tiêu chuẩn sản phẩm, v.v.)
  • Quản lý và giám sát việc áp dụng các quy tắc đã được thống nhất của WTO về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
  • Giám sát và xem xét các chính sách thương mại của các thành viên của chúng tôi, cũng như đảm bảo tính minh bạch của các hiệp định thương mại khu vực và song phương
  • Giải quyết tranh chấp giữa các thành viên của chúng tôi về việc giải thích và áp dụng các thỏa thuận
  • Xây dựng năng lực cho các quan chức chính phủ của các nước đang phát triển trong các vấn đề thương mại quốc tế
  • Hỗ trợ quá trình gia nhập của khoảng 30 quốc gia chưa phải là thành viên của tổ chức
  • Tiến hành nghiên cứu kinh tế, thu thập và phổ biến dữ liệu thương mại để hỗ trợ các hoạt động chính khác của WTO.
  • Giải thích và giáo dục công chúng về WTO, sứ mệnh và các hoạt động của tổ chức này.

Một số nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, tạo thành nền tảng của hệ thống thương mại đa phương ĐÓ LÀ;

Không phân biệt đối xử: một quốc gia không nên phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình và không nên phân biệt đối xử giữa các sản phẩm, dịch vụ hoặc công dân của mình và nước ngoài.

Tự do thương mại: hạ thấp các rào cản thương mại là một cách rõ ràng để khuyến khích thương mại; những rào cản này bao gồm thuế hải quan (hoặc thuế quan) và các biện pháp như cấm nhập khẩu hoặc hạn ngạch, hạn chế số lượng một cách có chọn lọc.

Dự đoán và minh bạch: các công ty, nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài nên tự tin rằng các rào cản thương mại sẽ không được nâng lên một cách tùy tiện. Với sự ổn định và khả năng dự đoán, đầu tư được khuyến khích, việc làm được tạo ra và người tiêu dùng hoàn toàn có thể hưởng lợi từ cạnh tranh – chẳng hạn như tăng sự lựa chọn và giá thấp hơn.

Cạnh tranh công bằng: không khuyến khích các hành vi “không công bằng”, chẳng hạn như trợ cấp xuất khẩu và bán phá giá các sản phẩm dưới giá trị thông thường để giành thị phần; các vấn đề rất phức tạp và các quy tắc cố gắng thiết lập thế nào là công bằng hoặc không công bằng, và cách chính phủ có thể phản ứng, đặc biệt là bằng cách tính thêm thuế nhập khẩu được tính toán để bù đắp thiệt hại do thương mại không công bằng gây ra.

Hỗ trợ cho các nước kém phát triển: hơn ba phần tư thành viên WTO là các nền kinh tế đang phát triển hoặc đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Các hiệp định của WTO cung cấp cho họ các giai đoạn chuyển tiếp để điều chỉnh theo các quy định của WTO và, trong trường hợp của Hiệp định Tạo thuận lợi Thương mại, cung cấp hỗ trợ thiết thực để thực hiện Hiệp định. Các hiệp định thương mại hiện tại của WTO bao gồm 16 hiệp định đa phương khác nhau (mà tất cả các thành viên WTO đều là thành viên) và hai hiệp định nhiều bên khác nhau (chỉ một số thành viên WTO là thành viên).

Bảo vệ môi trường: các hiệp định của WTO cho phép các thành viên thực hiện các biện pháp để bảo vệ không chỉ sức khỏe cộng đồng, động vật và thực vật mà còn cả môi trường. Tuy nhiên, các biện pháp này phải được áp dụng theo cùng một cách đối với cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài: các thành viên không được sử dụng các biện pháp bảo vệ môi trường như một phương tiện để đưa ra các rào cản thương mại mang tính phân biệt đối xử.

Bao hàm: WTO tìm cách xây dựng một hệ thống thương mại toàn diện hơn, cho phép nhiều phụ nữ và doanh nghiệp nhỏ hơn tham gia thương mại và gặt hái những lợi ích kinh tế từ thương mại toàn cầu.

Quan hệ đối tác: WTO duy trì đối thoại thường xuyên với xã hội dân sự, liên đoàn lao động, trường đại học và cộng đồng doanh nghiệp để tăng cường hợp tác và xây dựng quan hệ đối tác. Sáng kiến Đối thoại Thương mại của WTO và Diễn đàn Công khai hàng năm cung cấp một nền tảng cho các nhóm kinh doanh và xã hội dân sự thảo luận về những phát triển mới nhất trong thương mại thế giới và đề xuất các cách tăng cường hệ thống thương mại đa phương.

Thương mại kỹ thuật số: WTO công nhận tầm quan trọng ngày càng tăng của thương mại điện tử. Các đánh giá định kỳ về chương trình làm việc của WTO về thương mại điện tử được tiến hành bởi Đại Hội đồng dựa trên các báo cáo từ các cơ quan khác nhau của WTO. Ngoài ra, một nhóm các thành viên có cùng chí hướng đang tiến hành đàm phán về thương mại điện tử nhằm phát triển các quy tắc thương mại kỹ thuật số toàn cầu và giải quyết các thách thức do khoảng cách kỹ thuật số đặt ra.

Trong hơn 60 năm qua, WTO kể từ khi được thành lập vào năm 1995 và tổ chức tiền thân của nó là GATT đã giúp tạo ra một hệ thống thương mại quốc tế mạnh mẽ và thịnh vượng, qua đó đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu chưa từng có. WTO hiện có 164 thành viên, trong đó có 117 nước đang phát triển hoặc các vùng lãnh thổ hải quan riêng biệt. Chiếm hơn 98% thương mại quốc tế. Năm 2015 WTO đã đạt được một cột mốc quan trọng với việc tiếp nhận vụ tranh chấp thương mại thứ 500 để đưa ra giải quyết.

Tỷ trọng xuất khẩu của quốc gia trong tổng sản lượng toàn cầu đã tăng từ dưới 5% năm 1948 lên hơn 30% hiện nay.

 map%20and%20tm.jpg

Các nguyên tắc thành lập và hướng dẫn của WTO vẫn là theo đuổi các biên giới mở, đảm bảo nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử không phân biệt đối xử bởi và giữa các thành viên, và cam kết minh bạch trong việc thực hiện các hoạt động của mình. Việc mở cửa thị trường quốc gia cho thương mại quốc tế, với những ngoại lệ hợp lý hoặc với sự linh hoạt phù hợp, sẽ khuyến khích và góp phần vào sự phát triển bền vững, nâng cao phúc lợi của người dân, giảm nghèo và thúc đẩy hòa bình và ổn định. Đồng thời, việc mở cửa thị trường phải đi kèm với các chính sách đối nội và đối ngoại đúng đắn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế theo nhu cầu và nguyện vọng của mỗi thành viên.